Giáo sư Tôn Thất
Thiện (1924-2014)
LTS:
Nhân dip ngày giỗ đầu tiên của giáo sư Tôn Thất Thiện (1924 -2014)
chúng tôi đăng lại sau đây một trong những bài viết của ông về
những khái niệm chính trị nền tảng. Trong bài này tác giả có nhắc đến dự án
chính trị Thành Công Thế Kỳ 21. Thành Công Thế Kỷ 21 là dự án chính tri thứ
tư của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Nó vừa được cập nhất và thay thế bằng
Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai.
Câu hỏi được đặt ra ngay là:
“Làm sao một người “yêu nước” Việt Nam lại đi bắn giết một người khác cũng “yêu
nuớc” Việt Nam, mà nói rằng mình tranh đấu vì “Tổ Quốc Việt Nam” được?”
Như
vậy “Tổ Quốc” là gì? “Yêu nước” là yêu gì? Thế nào là “yêu nước”?
Tình
trạng thiếu rõ ràng trên đây có từ lâu, và nó không gây vấn đề vì ai cũng cho rằng
mình yêu nước là một điều dĩ nhiên. Không ai nghĩ rằng mình kém yêu nước hơn
người khác. Và nhất là không ai có thể quả quyết rằng những điều mình làm thực
sự là những hành động yêu nước hay không yêu nước, vì không ai có thể nói rõ rằng:
“yêu nước” là yêu gì, thế nào là “yêu nước”, và thế nào là “không yêu nước”?
Không ai chấp nhận rằng mình không “yêu nước”, nhưng cũng không ai có thể tố
cáo một người khác là “không yêu nước”!
Tôi
được nghe nói đến hai chữ “ái quốc”, “Tổ Quốc” lần đầu tiên trong đời tôi năm
tôi 11 tuổi. Năm đó là năm 1935. Người thốt ra hai chữ đó là người quản gia của
thân phụ tôi. Ông ta đọc báo mỗi ngày, và buổi tối thường kể cho chúng tôi nghe
những sự việc vừa xảy ra ở Việt Nam và trên thế giới. Một hôm, ông nói đến Ông
Ngô Đình Diệm, và nói: “Ông ấy thiệt là một nhà ái quốc”. Cũng năm đó, tôi đi
hướng đạo. Theo thể lệ của hướng đạo, sau một thời gian, để tỏ quyết định gia
nhập thí sinh phải đặt tay trên cờ hướng đạo tuyên thệ ba điều. Điều thứ nhất
là “Trung thành với Tổ Quốc”.
Những
năm tiếp theo là những năm tình hình quốc tế sôi động, dẫn đến Chiến Tranh Thế
Giới, với một hậu quả lớn đối với Việt Nam: Pháp yếu đi vì bị Đức đánh bại, và
bị Nhựt bản ép phải cho họ đóng quân ở Việt Nam. Tất nhiên sự kiện này ảnh hưởng
đến Việt Nam. Ai cũng cảm thấy rằng một cơ hội lớn để dành lại độc lập đang mở
ra cho Việt Nam. Nhiều tổ chức, phong trào, hoạt động mạnh. Rõ ràng rằng họ nhằm
nung đúc tinh thần “ái quốc”, nhưng không làm một cách công khai được vì Pháp vẫn
còn nắm quyền lực. Sau khi Nhựt lật đổ chính quyền bảo hộ Pháp vào tháng 3, năm
1945, các hoạt động “ái quốc” mới bùng lên.
Cùng
với những hoạt động “ái Quốc” từ 1945 và trong những năm chiến tranh chống
Pháp, những từ ngữ và cụm từ liên quan đến cuộc chiến tranh dành độc lập, đặc
biệt là “Quốc”, trở thành thông dụng, và mang những nghĩa độc đáo hơn. Những
người như các cụ Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu được nhắc đến như là những nhà
“ái Quốc”, và “ái Quốc” ở đây nặng nghĩa chống Pháp dành lại độc lập cho Việt
Nam. “Tổ Quốc” là Việt Nam, nhưng thường được ghép với “hy sinh”, trong cụm từ
“hy sinh vì Tổ Quốc”. Nó vẫn là một cái gì cao quý, thiêng liêng, khiến người
ta sẵn sàng hy sinh tính mạng vì nó, nhưng không định nghĩa được một cách thật
chính xác, vì nó quá trừu tượng.
Ngoài
ra, với sự trở lại chính trường của Cựu Hoàng Bảo Đại, từ ngữ “Quốc Gia” thành
phổ cập. Đồng thời, từ năm 1950, với sự tái xuất của Đảng Cọng Sản dưới danh hiệu
“Đảng Lao Động”, từ ngữ “Cách Mạng” và “yêu nước” cũng được dùng thường hơn là
“Tổ Quốc” và “ái Quốc”. Ngoài tội “phản Quốc” chính quyền cọng sản đặt thêm một
tội nữa để thanh toán địch nhân: tội “phản Cách Mạng”. Ở Miền Nam, tội nặng nhất
là tội “theo cọng sản”. Trong cuộc chiến 1954-1975, từ ngữ “Tổ Quốc” ít được
dùng đến. Ở Miền Bắc “Hy sinh vì Tổ Quốc” thành “Hy sinh vì Cách Mạng” (hiểu
theo nghĩa Cách Mạng Thế Giới), tính chất chiến tranh là “chống Mỹ cứu nước.” Ở
Miền Nam tính chất chiến tranh là “bảo vệ Tự Do,” cuộc chiến là “chống cọng.”
Tình
trạng kéo dài như trên đến khi Việt Nam “thống nhất” năm 1975. Đây là một dịp đặc
biệt về phương diện xác định nghĩa của khái niệm “Tổ Quốc”. “Yêu nước” được định nghĩa chính thức.
Tại
Đại hội IV của Đảng Cọng Sản Việt Nam, năm 1976, Báo Cáo Chính Trị của Đại Hội
tuyên bố rằng: “Ngày nay Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là một,” và Nghị Quyết của Đại Hội thì nói rằng: “Ngày nay nước
nhà đã hoàn toàn độc lập thì Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là một.” Nghĩa là: yêu
Tổ quốc là yêu xã hội chủ nghĩa.
Vì
“xã hội chủ nghĩa” chỉ là một chủ nghĩa, làm sao dân tộc Việt Nam lại là một chủ
nghĩa được? Phần khác, nó là một chủ nghĩa ngoại lai và đồng hoá với Liên xô,
và Liên Xô đồng hoá với Stalin, nên “Tổ Quốc” của người Việt Nam là Liên xô!
“Yêu nước” là yêu Liên Xô, và “Trung Quân” là trung với Stalin! Lại nữa, chủ
nghĩa xã hội là một lý thuyết về xã hội do Mác và Lê Nin đề xướng, được quảng
bá nhờ Stalin, mà lý thuyết xã hội thì thay đổi qua thời gian. Nếu Stalin không
còn, và nhứt là nếu Liên Xô cũng không còn — một sự kiện thực sự đã xảy ra vào
năm 1990 — thì người Việt phải yêu cái gì và trung với ai đây? Nhà thi sĩ nhà
nước Tố Hữu sẽ bảo người Việt thương ai hơn cha, hơn mẹ, hơn chồng mình đây?
Tuy
nhiên, từ 1975 tập đoàn cầm quyền cọng sản vẫn khăng khăng “kiên trì” chủ nghĩa
Mác-Lê và nhất quyết theo “định hướng xã hội chủ nghĩa,” đưa Việt Nam vào cảnh
càng ngày càng bế tắc về chính trị - xã hội và suy đồi về đạo đức, như mọi người
đều biết. Cho nên, sự áp đặt chế độ “xã hội chủ nghĩa” lên toàn lãnh thổ Việt
Nam và buộc người Việt phải lấy “xã hội chủ nghĩa” làm “Tổ Quốc” tạo ra một
tình trạng buộc mọi người phải xét lại vấn đề “yêu nước” một cách nghiêm túc,
tìm trả lời chính xác cho những câu hỏi căn bản: “Yêu nước” là yêu gì? “Tổ Quốc”
là gì? Ai “yêu nước”? Ai “không yêu nước.” Thế nào là “yêu nước”?
Vấn
đề rất phức tạp, tế nhị. Những giải đáp đưa ra phải đúng, hợp lý, hợp tình, nhất
là có thể dùng để làm cơ sở chỉ đạo tư tưởng đúng và hành động hữu hiệu, có thể
thu hút được sự đồng thuận rộng rãi, tạo điều kiện cho một sự đoàn kết hoà hợp
cố gắng chung để đưa xứ sở ra khỏi bế tắc hiện nay, và vươn lên trong tương
lai. Công việc này đòi hỏi sưu khảo rộng rãi, và suy nghiệm chín chắn.
Một
trong những người tiên phong trong công cuộc sưu khảo suy nghiệm trên đây là
anh Nguyễn Gia Kiểng, với tác phẩm Tổ Quốc Ăn Năn (Paris, 2001) do anh sáng
tác, và Thành Công Thế Kỷ 21 (Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên, 2001) mà anh
là một biên tập viên then chốt. Hai tác phẩm này đã soi sáng rất nhiều nhất vấn
đề “yêu nước”. Luận đề chính của nó là: nói rằng người Việt Nam yêu nước là “một
sự lầm lẫn.” Lòng yêu nước của người Việt nói chung “rất yếu”. Theo anh, thật
ra, “Người Việt Nam hoặc không yêu nước, hoặc chỉ yêu nước một cách tương đối.”
(TQAN, tr.66- 69), và điều mà anh ấy muốn làm sáng tỏ là “lòng yêu nước rất mờ
nhạt trong lòng người Việt, dù cọng sản hay không cọng sản” (tr.66) (1).
Những
điều trên đây được anh Nguyễn Gia Kiểng giải thích, nhưng những giải thích này
rải rác trong tác phẩm TQAN, và một phần trong TCTK21, cần phải bỏ công thâu
góp, sắp xếp lại, mới thấy rõ. Bài này chỉ trình bày một vài chi tiết có tác dụng
làm sáng tỏ những điểm vừa nêu ra ở trên. Độc giả nào muốn thấy đầy đủ các chi
tiết khác để nắm vững vấn đề xin xem những chương “Yêu nước” (tr.65-75), “Tổ quốc
của kẻ sĩ” (tr.343-356), “Tổ quốc ăn năn” (tr. 567-585).
Chính
quyền cọng sản là Tổ Quốc?
“Tổ
Quốc” là vĩnh cữu, cao cả, thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Nhưng Tổ Quốc là một
thực thể trừu tượng. Người dân có thể cảm nhận về Tổ Quốc thế nào tùy ý, nhưng
họ chỉ tiếp xúc với “Chính quyền”. Chính quyền là hiện thân của Tổ Quốc. Nó là
bộ máy điều khiển công việc của “Nhà nước”. Mà Nhà nước là tổ chức quản lý
chung của một nước; đứng đầu tổ chức đó là “Chính phủ”. “Nhà nước” là từ ngữ cũ
chỉ định “Nước nhà”; và “Nước nhà” là từ ngữ cũ chỉ định “Quốc gia”. Như vậy,
trong thực tế, Chính phủ là Chính quyền, và Chính quyền là Nhà nước, là Quốc
gia, là Tổ Quốc. Trong cuộc sống hàng ngày, người dân chỉ biết Tổ quốc, Quốc
gia, Nhà nước, Chính quyền qua Chính phủ, nghĩa là qua sự tiếp xúc với các công
chức Nhà nước, hoặc cán bộ Đảng, nếu Chính quyền là Đảng Cọng Sản, và có sự lẫn
lộn giữa bộ máy đều khiển công việc của Đảng và bộ máy điều khiển công việc của
Nhà nước, như tình trạng hiện tại của Việt Nam.
Những
điều trên đây làm cho ta hết ngạc nhiên khi ta nghe nói rằng “đa số người Việt
Nam quay lưng lại với đất nước”: người Việt kiều về thăm nhà chỉ muốn làm khách
du lịch, người trong nước không muốn nghe nói đến chuyện đất nước. Như đã nói ở
trên, hai tiếng “yêu nước” bây giờ thành “tục tĩu”, “thô bỉ”, nhảm nhí”...
Đa số
người Việt Nam đã mất đi lòng yêu nước vì họ quá thất vọng với đất nước (= Tổ
Quốc ) nghĩa là với Chính quyền (= Chính phủ). Đối với người dân, thời Việt Nam
theo Khổng giáo chính quyền là Vua, “ái Quốc” là “trung Quân”, và “Nước” chỉ là
một gánh nặng; thời Pháp thuộc, Nước đã bị tước đoạt, bộc lộ lòng yêu nước là một
điều nguy hiểm; gần đây, nếu Tổ Quốc của phe Quốc gia là “một tổ quốc tầm
phào”, thì Tổ Quốc của phe cọng sản lại là một “một tổ quốc gian ác” (tr.573).
Từ
1975, chính quyền ở Việt Nam hoàn toàn nằm trong tay Đảng Cộng Sản, cho nên
trách nhiệm về tình trạng nói trên hoàn toàn thuộc về đảng này. Đảng Cọng Sản
Việt Nam đã hủy diệt lòng yêu nước của người Việt Nam vì dưới quyền cai trị của
họ, họ đã nhân danh Tổ quốc tàn sát những người không chấp nhận chủ nghĩa của họ,
biến Tổ Quốc thành “một Tổ quốc đao phủ”; họ đã phát động chiến tranh thôn tính
Miền Nam, làm cho nước nhà kiệt quệ, “Tổ quốc Việt Nam đồng nghĩa với chiến
tranh và chết chóc”; họ đã dùng công an biến Việt Nam thành “một Tổ quốc khống
chế và hăm doạ ... hành động như bọn giặc cướp ... đểu cáng và lật lọng”...; họ
đã làm cho hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, vì đối với những người này “Tổ
quốc là sóng gió, hải tặc, cái chết trong bụng cá... là một dĩ vãng cần quên
đi”...
Tình
trạng trên đây làm cho việc đòi Tổ quốc phải “ăn năn” không phải là vô lý. Khi
anh Nguyễn Gia Kiểng viết: “Tổ quốc phải là một tổ quốc trách nhiệm ... biết hối
hận và ăn năn...” (tr.585), nếu ta thay từ ngữ “Tổ quốc” bằng “Chính quyền”,
nghĩa là chính quyền cọng sản, thì câu đó thành “Chính quyền [cọng sản] phải là
một chính quyền trách nhiệm ... biết hối hận và ăn năn ...”
Phục
hồi lòng yêu nước
Ăn
năn, sám hối thế nào là một vấn đề đã được nhiều người bàn đến nên không cần
bàn ở đây. Tóm tắt, Tổ quốc (= Chính quyền cọng sản) phải trở nên một Tổ quốc
“hiền hoà, khiêm tốn”, tự coi mình không phải là một cứu cánh, mà là một công cụ
đứng trong và đứng dưới Quốc gia, chỉ có sứ mệnh phục vụ Quốc gia, mang lại
phúc lợi và niềm tự hào cho dân tộc trong công cuộc xây dựng lại đất nước.
Một
điều kiện nữa không kém quan trọng trong công cuộc xây dựng lại đất nước là
lòng yêu nước thật sự của người dân. Lòng yêu nước đó đã mất đi thì nay phải phục
hồi. Một ưu tư lớn trong việc phục hồi này là tránh những những đỗ vỡ về tinh
thần, vật chất và nhân mạng cho đất nước. Hơn 30 năm chiến tranh đã gây “phí phạm
kinh khủng” về tài nguyên của nước, và tài sản và nhân mạng của dân Việt Nam.
Phần khác, qua chiến tranh người Việt đã tỏ ra không yêu nhau: họ đã xung đột
nhau gay gắt, phủ nhận, mạt sát, lên án, tiêu diệt nhau. Mà “không yêu nhau là
không yêu nước” (tr.351). Họ đã không có tự hào dân tộc, không dấn thân tranh đấu,
tránh gian nguy, không chấp nhận rủi ro, chấp nhận thỏa hiệp với chế độ độc tài
tham nhũng, không chấp nhận một hy sinh nào cả, không gắn bó và trách nhiệm với
cộng đồng...
Trong
hơn 100 năm qua, thâu hồi độc lập, thống nhứt đất nước, xoá bỏ quá khứ nhục nhã
được coi như là những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của dân tộc. Tranh đấu để đạt
những mục tiêu đó là nhiệm vụ cao cả của mọi người Việt Nam, “Tổ Quốc” trở
thành một cái gì thiêng liêng. “Hy sinh tất cả cho Tổ Quốc” không chỉ là một khẩu
hiệu, mà là một cái gì có một sức lực vô biên. Nhân danh “Tổ Quốc” người ta sẵn
sàng làm tất cả, vô điều kiện, kể cả thù ghét, bắn giết người đồng hương, hăng
say đập phá tan tành xứ sở. Ngày nay, không còn lý do để quan niệm đất nước như
một chủng tộc hay quá khứ, “một tổ quốc thiêng liêng mà mọi người phải phục
tùng, tôn kính, và phải phục vụ vô điều kiện” nữa, mà phải coi đất nước như là
một quốc gia, “một không gian liên đới giữa những người hiểu nhau, quí trọng
nhau, và hợp tác với nhau để xây dựng và chia sẻ một tương lai chung.”(TCTK21,
tr.30) Quốc gia phải quan niệm như một cứu cánh, phải thực sự tự do, dân chủ,
“tập thể của những người tự do, bình đẳng.” Trong một quốc gia như vậy Nhà nước/Chính
quyền chỉ là công cụ của Quốc gia, phải khiêm tốn hiền hoà, đem lại phúc lợi và
niềm tự hào cho người dân. (TCKTK21, tr.28).
Trong
công cuộc dựng nước, Quốc gia cần có một thái độ lo lắng và thận trọng trong việc
bảo vệ tài nguyên và nhân mạng, phải “quý trọng từng con đường nhỏ, từng cây cầu,
từng dãy phố, từng căn nhà ... phải tránh những sự phí phạm và những chiến
tranh làm chết hàng triệu người.” Trong quốc gia này, người Việt sẽ thương yêu
kính trọng lẫn nhau và ngồi lại với nhau để giải quyết những vấn đề bất đồng
thay vì khinh miệt lẫn nhau và chỉ tìm giải quyết với người ngoại quốc, hay cầu
cạnh người ngoại quốc giải quyết những vấn đề của mình. Đó là tỏ ra tinh thần
hoà giải, và tự hào dân tộc.
Chỉ
có một quốc gia như vậy mới có thể đem lại cho mọi người Việt Nam lý do để yêu
nước, và chung sức dựng nước, để tồn tại, và vươn lên.
Với
kết luận này, tôi không còn sợ rằng nếu tôi yêu nước thì tôi phải yêu chủ nghĩa
xã hội và phải quy thuận mấy ông cán bộ của chế độ cọng sản.
Tết
này, tôi sẽ khỏi băn khoăn thắc mắc về vấn đề “Yêu Nước”. Tết này, tôi cũng sẽ
vui vì biết rằng các đồng hương của tôi có thể yên tâm quả quyết rằng:
“Tổ
Quốc của tôi không phải là Đảng Cọng Sản Việt Nam!”
“Tôi
có thể yêu nước, mà không cần phải yêu chủ nghĩa xã hội!”
Ottawa,
Tháng 12, 2006
Tôn Thất Thiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét